Thứ Tư, 22 tháng 2, 2017

Bài Văn cúng khấn lễ Đức Thánh Trần

Bài Văn cúng khấn lễ Đức Thánh Trần
Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái
Bài Văn cúng khấn lễ Đức Thánh Trần 
Văn khấn lễ Đức Thánh Trần
– Con kính lạy giòng tộc Công Đồng Trần Triều
– Con kính lạy Nguyên Từ Quốc Mẫu Thiên Thành Thái Trưởng Công.
– Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái, Tổng quốc chính, Thái sư Hương phụ Thượng quốc công tiết chế, Lịch triều tấn tặng khai quốc an chính hồng đồ tá trị hiện linh trác vĩ, Minh đức trĩ nhân, Phong huân hiên liệt, Chí trung đại nghĩa, Dực bảo trung hưng, Thượng đẳng tôn thần, Ngọc bệ tiền.
– Con kính lạy tứ vị Thánh tử đại vương, Nhị vụ vương cô Hoàng Thánh.
– Con kính lạy Đức ông phạm điệu suý tôn thần, tả quan Nam Tào, Hữu quan Bắc Đẩu, Lục bộ thượng từ, chư vị bách quan.
Hương tử con là:…………………………………………………………………….
Ngụ tại:…………………………………………………………………………………
Hôm nay ngày…. tháng….. năm…….. Hương tử chúng Chấp bái kỳ lễ bái xin các vị phù hộ độ trì cho hương tử con cùng toàn gia quyến được luôn mạnh khoẻ. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, chín tháng đông, ba tháng hè được tai quan nạn khỏi, điều lành mang đến, điều giữ giải đi, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lốc, cầu bình an đắc bình an. Xin cho con được có người có cửa, được nhân an vật thịnh đi đến nơi về đến chốn, làm ăn được thuận buồn xuôi gió, vạn sự như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Tại sao lại thắp 3 nén nhang?

Tại sao lại thắp 3 nén nhang?
Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?
Theo tín ngưỡng của người Việt, thắp nhang cho bàn thờ Phật, ông bà, tổ tiên là một lòng thành tâm mong muốn những điều tốt đẹp, cầu mong sức khỏe, sự bình an, hạnh phúc và tài lộc đến với gia đình. 3 nén nhang và 3 lạy có ý nghĩa rất sâu xa, liên quan mật thiết đến văn hóa và niềm tin của người Việt Nam.
Theo ngôn ngữ Phật học, 3 nén nhang lạy trước tượng Phật có ý nghĩa tương ứng với " giới hương, định hương và huệ hương. ".
- Nén nhang thứ nhất được gọi là "giới hương" nghĩa là trước mặt Phật biểu đạt lòng quyết tâm của mình, từ bỏ thói quen xấu, từ bỏ suy nghĩ xấu.
- Nén nhang thứ hai gọi là "định hương" có ý nghĩa là dù có điều gì xảy ra trong cuộc sống, tinh thần cũng sẽ bình tĩnh, cầu mong luôn suy nghĩ sáng suốt, hành động theo lí trí.
- Nén nhang thứ ba là "tuệ hương" (hay "huệ hương") có ý cầu khẩn bản thân được có trí tuệ, thông minh, sáng suốt để gặp được Phật tâm.
Theo kinh Phật, "giới, định, huệ" là phương pháp "khai mê khai ngộ" bỏ qua những suy nghĩ sai lầm, một tấm lòng chân chính, lương thiện, hướng về đức Phật. Chỉ khi còn người từ bỏ được cách nghĩ xấu, hành động xấu thì nhân quả của bản thân mới được trở nên tốt đẹp hơn. Giới, Định, Huệ là cách để con người thoát khỏi sự mê muội và đi đến con đường tỉnh ngộ và đó cũng là một loại quan hệ nhân quả. Chỉ có vứt bỏ đi thói quen và những quan niệm xấu của bản thân, tâm mới yên và sau đó mới xuất hiện “yên mới sinh huệ”.
Tại sao lại lạy 3 lạy?
Vậy tại sao lại lạy 3 lạy? Lạy thứ nhất thể hiện lòng thành tâm hướng Phật. Lạy thứ hai thể hiện ước vọng muốn được giác ngộ, muốn được quy về chốn cửa Phật. Lạy thứ ba là trang nghiêm sám hối lỗi lầm của mình trước Phật.
Như vậy, thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy là một hành động không phải chỉ theo thói quen mà là một nghi lễ có truyền thống lâu đời, thể hiện cái tâm ấm áp, tín ngưỡng cao đẹp của dân tộc hướng tới những điều lương thiện.

Ý nghĩa lễ Đền Bà Chúa Kho

1. Ý nghĩa lễ Đền Bà Chúa Kho
Vào những ngày đầu xuân, khách thập phương từ mọi miền đất nước đổ về đền Bà chúa Kho (Bắc Ninh) để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, trong đó đa phần là giới thương nhân, tiểu thương. Họ quan niệm "đầu năm đi vay, cuối năm đi trả", muốn nhờ vía của Bà để ăn nên, làm ra, kinh doanh phát đạt.
2. Sắm lễ đền Bà chúa Kho
Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,... để dâng cũng được.
Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản... dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.
Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.
Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả... Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược... Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.
3. Cách hạ lễ sau khi lễ đền Bà chúa Kho
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các bàn thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.
Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính.
VĂN KHẤN CÚNG ĐỀN BÀ CHÚA KHO
Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì.
- Con xin kính lạy Tam giới Thiên chúa cập nhất thiết Thánh chúng.
- Con xin kính lạy Tam phủ công đồng. Tứ phủ vạn linh.
- Con xin kính lạy Thiên tiên Thánh mẫu, Địa thiên Thánh mẫu, Thủy tiên thánh mẫu.
- Con xin kính lạy Đức Chúa kho Thánh mẫu hiển hoá anh linh.
- Con xin kính lạy Đương niên hành khiển chí đức Tôn thần.
- Con xin kính lạy Đường cảnh Thành Hoàng Bản Thổ đại vương.
- Con xin kính lạy Ngũ hổ thần tướng, Thanh bạch xà Thần linh
Hương tử con là:
Ngụ tại:....................................................................................................................................
Ngày hôm nay là ngày...............................................
Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì.

Cách sắm lễ khi đi lễ ở Đình, Đền, Miếu, Phủ


Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,... để dâng cũng được.
1. Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản... dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu. Trong trường hợp này sắm thêm một số hàng mã để dâng cũng như: tiền, vàng, nón, hia...
2. Lễ Mặn: Gồm gà, lợn, giò, chả... được làm cẩn thận, nấu chín. Nếu có lễ này thì đặt bàn thờ Ngũ vị quan lớn tức là ban công đồng.
3. Lễ đồ sống: Gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt mồi (một miếng thịt lợn khoảng vài lạng).
Đây là lễ dành riêng cho việc dâng cúng quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.
Theo lễ thường thì gồm 5 quả trứng vịt sống đặt trong một đĩa muối, gạo, hai quả trứng gà sống đặt trong hai cốc nhỏ, một miếng thịt mồi được khía (không đứt rời) thành năm phần, để sống. Kèm theo lễ này cũng có thêm tiền vàng.
4. Cỗ mặn sơn trang: Gồm những đồ đặc sản Việt Nam: cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả... Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
Theo lệ thường, khi sắm lễ mặn sơn trang, người ta thường sắm theo con số 15: 15 con ốc, cua, 15 quả ớt, chanh hoặc có thể chỉ cần 1 quả nhưng được khía ra làm 15 phần... Con số 15 này tương ứng với 15 vị được thờ tại ban sơn trang:
1 vị chúa
2 vị hầu cận
12 vị cô sơn trang
5. Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, hia, hài, nón, áo... (đồ hàng mã) gương, lược... Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
6. Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Thường dùng lễ mặn: chân giò lợn luộc, xôi, rượu, tiền, vàng...
Văn khấn tại đình, đền, miếu, phủ
Văn khấn Thành hoàng ở Đình, Đền, Miếu
– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con xin kính lạy ngài Kim Niên Đương cai Thái tuế chí đức Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương.
Hương tử con là:........................................................................................... Tuổi...........................
Ngụ tại:.............................................................................................................................................
Hôm nay là ngày…… tháng……năm…..(Âm lịch)
Hương tử con đến nơi (Đình hoặc Đền hoặc Miếu) thành tâm kính nghĩ: Đức Đại Vương nhận mệnh Thiên đình giáng lâm ở nước Việt Nam làm Bản cảnh Thành Hoàng chủ tể một phương bấy nay ban phúc lành che chở cho dân. Nay hương tử chúng con thành tâm dâng lên lễ bạc, hiến tế hương hoa, phẩm oản…
Cầu mong đức Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương chứng giám, rủ lòng thương xót, phù hộ che chở cho chúng con sức khoẻ dồi dào, mọi sự tốt lành, lắm tài nhiều lộc, an khang thịnh vượng, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Văn khấn ban Công Đồng
– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương
– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu
– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh
– Con lạy Tứ phủ Khâm sai
– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu
– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
– Con lạy quan Chầu gia.
Hương tử con là:…………………………………...............................….Tuổi…………………..
Cùng đồng gia đại tiểu đẳng, nam nữ tử tôn
Ngụ tại:…………………………………………………….......................................................….
Hôm nay là ngày…… tháng…… năm………………(Âm lịch). Tín chủ con về Đền…………… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Phục duy cẩn cáo!

Tìm hiểu ngọc hoàng là ai




Bách Việt trùng cửu
Người Việt cứ có chuyện gì là lại kêu “Trời”. Nhưng ông Trời là ai? Tại sao người Việt lại tin vào ông Trời đến vậy?
Trong Đạo Giáo Trung Hoa ông Trời là Ngọc Hoàng thượng đế, người cai quản Thiên đình. Trong Đạo Mẫu Tứ phủ ở Việt Nam vua cha của Thiên phủ cũng là Ngọc Hoàng thượng đế. Các sử gia với cái nhìn thiên kiến về tính xác thực của các thông tin trong tín ngưỡng và tôn giáo đều không muốn tìm xem Ngọc Hoàng thượng đế là nhân vật lịch sử nào.
Thực ra Ngọc Hoàng thượng đế là Hoàng Đế, người được coi là ông tổ của Hoa sử. Gọi là “Ngọc” vì đây đang là còn thời kỳ đồ đá. Gọi là “Hoàng” vì là màu của trung tâm trong Ngũ hành, tương ứng với vua. Ngọc Hoàng nghĩa là vị vua của thời tiền sử.
Ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng coi Hoàng Đế là vị vua đầu tiên của nước ta. Câu mở đầu của chính sử Đại Việt ghi rõ: “Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt…”.
Hoàng Đế của Trung Hoa lại là ông Trời của người Việt. Ở nước ta tới giờ vẫn còn những nơi riêng thờ Ngọc Hoàng như đền Đậu An ở làng An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Theo thần tích còn lưu giữ trong đền, vào năm “Thiên Định nhị niên” có Thiên tiên, Địa tiên mở cổng trời xuống hướng dẫn nhân dân khai phá vùng sình lầy, dạy cách săn bắn, hái lượm và trồng lúa nước. Ngoài ra còn có Ngũ lão tiên ông huy động dân làng khai hoang, diệt trừ thú dữ và dựng Thụy Ứng quán thờ trời để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu…
Đền Đậu An nằm trên mảnh đất hình đầu rồng, xung quanh có hồ nước trong xanh bao bọc. Do đó câu đối ở đền chép:
Thiên Định kỷ nguyên, Thụy Ứng Ngọc Hoàng lai giáng hạ
Địa linh thiên cổ, đền đài thượng đế ngự long đầu.
Dịch:
Thiên Định năm xưa, Thụy Ứng Ngọc Hoàng xuống hạ thế
Đất thiêng nghìn tuổi, đền đài thượng đế ngự đầu rồng.
Tháp đất nung và điện thờ Ngọc Hoàng ở đền Đậu An, Hưng Yên
Ngọc Hoàng thượng đế ở đền Đậu An còn có cả niên hiệu “Thiên Định” như một triều đại thật sự. Theo thông tin ở đây thì ngôi đền này đã được dựng từ năm 226 trước Công nguyên. Rõ ràng tục thờ Ngọc Hoàng là tín ngưỡng bản địa của người Việt bởi vì lúc đó nước ta còn chưa chịu ảnh hưởng của phương Bắc. Theo chính sử thì mãi tới năm 218 TCN thì nhà Tần lần đầu mới đánh chiếm Bách Việt. Trước đó Văn Lang, Âu Lạc là những quốc gia hoàn toàn độc lập, không liên quan gì tới phương Bắc.
Hoàng Đế trong Hoa sử có tên là Hiên Viên, là vua nước Hữu Hùng. Còn Thiên Nam ngữ lục thì chép:
Tự vua Viêm Đế sinh ra
Thánh nhân ngưu thủ họ là Thần Nông
Trời cho thay họ Hữu Hùng
Con cháu nối nghiệp cha ông thủ thành.
Họ Thần Nông được thay bằng họ Hữu Hùng. Đối chiếu hai dòng sử thì thấy rõ vua Hữu Hùng là Đế Minh trong truyền thuyết họ Hồng Bàng vì sử Việt bắt đầu chính bằng “Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông…”.
Huyền sử Trung Hoa cho biết sau trận đánh quyết liệt giữa Hiên Viên với Xuy Vưu ở Trác Lộc thì tất cả dân chúng các bộ lạc đều hoan nghênh Hữu Hùng Thị, tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi Minh chủ, lấy hiệu là Hoàng Ðế.
Hoàng Đế được tôn là Minh chủ hay Minh Đế, tức là Đế Minh của truyền thuyết Việt. Minh nghĩa là sáng, là tỏ, tương ứng với chữ Hiển trong Hán văn. Chính vì vậy Hoàng Đế – Đế Minh được gọi là Hiển Vương, tam sao thất bản chép thành Hiên Viên.
Hoàng Đế là ông tổ của dân tộc Hoa Việt, là vị vua Hùng chính thức đầu tiên của nước họ Hùng (Hữu Hùng). Tên Hùng Hiển Vương trong Ngọc phả Hùng Vương được chép là của Lạc Long Quân. Đây là sự lẫn lộn thường thấy giữa 2 vị quốc tổ họ Hùng này khi chép theo 2 dòng sử Hoa và Việt.
Câu đối ở đền Hùng – Phú Thọ:
Thiên thư định phận chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Dịch:
Sách trời định chốn chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt duy có tổ
Núi tỏa linh thiêng cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.
Ngọc Hoàng – Đế Minh đã dựng Minh Đô tại nơi ba con sông Đà, Lô, Thao hội tụ ở Phong Châu – Phú Thọ, bắt đầu thời đại có quốc gia, có vua của người họ Hùng, của cộng đồng người Bách Việt. Là quốc tổ khai sinh họ Hùng nên Đế Minh mãi được tôn là ông Trời trong tâm thức của người Việt cũng như người Hoa.
Advertisements

Tìm hiểu về tứ vị vua cha


Hiện nay trong hệ thống thờ Tứ phủ có 4 vị mẫu cai quản các phủ Thiên, Địa, Nhạc, Thoải. Bên cạnh các mẫu có 3 vị vua cha được thờ làm thần chủ các phủ là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thiên phủ), Bát Hải Động Đình (Thoải phủ) và Diêm vương (Địa phủ). Tuy nhiên như vậy còn khuyết vị trí vua cha của Nhạc phủ.
Vị trí vua của Nhạc phủ là có, được thỉnh đến trong bài Văn Công đồng:
Tận hư không giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích quản cai Thiên chủ
Vua Ngọc Hoàng Thiên phủ chi tôn
Dương phủ ngũ nhạc thần vương
Địa phủ thập điện Minh vương các toà
Dưới Thoải phủ giang hà ngoại hải
Chốn Động Đình Bát Hải Long Vương…
Ngũ nhạc thần vương là ai? Không ai khác đó phải là Tản Viên Sơn Thánh.
Ngọc phả đức thánh Tản Viên ở Đền Và chép chi tiết việc bà Ma Thị Cao Sơn là mẹ nuôi của Tản Viên Nguyễn Tuấn đã làm chúc thư trao lại khu vực rừng núi từ sông Đà tới sông Lô cho Thánh Tản. Việc Sơn Thánh cai quản Thượng Ngàn như vậy còn có cả “văn bản” hẳn hoi:
“Sau khi Ma Thị tôi qua đời, Nguyễn Tuấn phải tuân lệnh giữ mọi vật ở trong núi, quyền đó mãi mãi không được thay đổi, lưu truyền vạn đại…”
Ngọc phả đền Và kể khi giao tranh với Thủy Tinh thì Sơn Thánh đã “niệm thần chú … núi Ngũ nhạc nổi lên trên mặt sông cao đến mấy nghìn vạn trượng”.
“Ngũ nhạc” không phải là 5 ngọn núi nào đó ở bên Tàu. Ngũ (số 5) là con số trung tâm của Hà Lạc. Ngũ Nhạc nghĩa là ngọn núi ở trung tâm, nơi có vua. Ngọn Ngũ nhạc của thần vương Sơn Tinh là núi Tản Lĩnh (Ba Vì).
Ngọc phả trên còn có đoạn: “Vua (Hùng) … gia phong cho Sơn Thánh làm Nhạc Phủ Kiên Thượng Đẳng…”.
Như vậy rõ ràng Tản Viên Sơn Thánh là thần vương của Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ.
Ngọc phả lại có đoạn: “… Từ đó phụng mệnh Hoàng Đế thường cùng với Tứ phủ Công đồng ở trên hải đảo đi tuần xét muôn việc trong nhân gian”.
Đoạn trích này cho biết người đứng đầu Tứ phủ Công đồng là Hoàng Đế. Điều này nghĩa là vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế của Thiên Phủ là Hoàng Đế Hiên Viên, người được nhắc đến ở đầu Đại Việt sử ký toàn thư: “Thủa Hoàng Đế mở muôn nước…”.
Cổng Bắc cung Tản Viên (Đền Thính) ở Yên Lạc – Vĩnh Phúc.
Cũng trong thần tích Thánh Tản đã dùng cây gậy thần cứu sống con rắn là Thuỷ Tinh, con của Động Đình Đế Quân, rồi đi xuống thăm thuỷ phủ, được tặng thêm quyển sách ước… Lại theo truyện cũ ở sách Giao Châu ký của Lỗ Công thì “đại vương Sơn Tinh họ Nguyễn, cùng vui ở với loài thủy tộc ở đất Gia Ninh …” (theo Lĩnh Nam chích quái).
Đoạn này là một cách kể khác của chuyện Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình. Xích Lân Long Nữ là Mẫu Thoải, thần chủ của Thoải phủ, trong truyền thuyết Tản Viên đã được chép là Thuỷ Tinh.
Tiếp đó là đến đoạn vua Hùng kén rể. Sơn Tinh là người đã dâng lễ vật lên trước nên được cưới Mỵ Nương. Lễ vật là voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Sơn Tinh được chọn làm rể nghĩa là Tản Viên đã tiếp nhận ngôi vị của vua Hùng theo lối truyền hiền. Đây là chuyện Đế Thuấn truyền ngôi cho Đại Vũ. Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao là hình ảnh Đại Vũ chia 9 châu với các cống vật của các châu (thiên Vũ Cống trong Kinh Thư). Số 9 được lặp lại tức là “cửu trùng”, chỉ Đại Vũ đã lên ngôi cai quản toàn thiên hạ.
Truyền thuyết kể tiếp, Thủy Tinh đến muộn, không lấy được Mỵ Nương (không chiếm được vương vị) nên đã dâng nước đánh Sơn Tinh… Có thể thấy Thủy Tinh lúc này không phải là Thủy Tinh được Sơn Tinh cứu sống và làm bạn lúc trước. Trận đánh giữa Thủy Tinh từ Động Đình chống lại Tản Viên là hình ảnh cuộc tranh đoạt vương quyền giữa ông Khải (con của Đại Vũ) với ông Bá Ích trong Hoa sử. Truyền thuyết Việt vùng đồng bằng ven biển chép là chuyện Vĩnh Công Bát Hải Động Đình đánh Thục. Còn truyền thuyết Hùng Vương chép là chuyện Lạc Long Quân – Âu Cơ thủy hỏa tương khắc, phải chia đàn con Bách Việt làm hai, một lên rừng một xuống biển. Dòng tộc Tản Viên là dòng Thục ở phía Tây (Tây Tản) của Âu Cơ. Kết thúc cuộc chiến Đông – Tây này là chiến thắng của Thục Phán – Âu Cơ dựng nước Văn Lang – Âu Lạc ở Tây Thổ Phong Châu. Đền miếu dòng Tản Viên mãi còn như trong câu đối ở đền Hùng:
“Hiển vu Tây Thổ, Tản Lô nhất đái thọ tân từ”.
Tản Lô là vùng Thượng Ngàn mà bà Ma Thị Cao Sơn đã để chúc thư lại cho Tản Viên cai quản.
Trong thần tích của Tản Viên Sơn Thánh có đủ các thần chủ của Tứ phủ từ Mẫu Thượng Ngàn (Ma Thị Cao Sơn), Ngọc Hoàng Thượng Đế (Hoàng Đế), Mẫu Thoải (Thủy Tinh 1) và vua cha Bát Hải Động Đình (Thủy Tinh 2). Tín ngưỡng Tứ phủ công đồng hình thành ở vùng đồng bằng sông Hồng, là vùng đất phía Đông do dòng Lạc Long nắm giữ. Có lẽ vì thế mà vai trò của Nhạc phủ, với thần chủ là Tản Viên Sơn Thánh, thuộc dòng tộc phía Tây (Thục) đã bị mờ nhạt đi trong tín ngưỡng này. Để tín ngưỡng Tứ phủ trở thành tín ngưỡng chung của người Việt ở đồng bằng cũng như vùng núi, để trăm người con cùng một bọc đồng bào, chung cha chung mẹ thờ đúng tổ tiên của mình thì cần xác nhận vị trí tôn chủ Nhạc phủ của Tản Viên Sơn Thánh.

SỰ TÍCH ÔNH Hoàng Bẩy


Đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bẩy, một anh hùng miền sơn cước đánh giặc phương Bắc bảo vệ bản làng. Đền được coi là rất linh thiêng, ẩn chứa trong mình nét văn hoá tâm linh nên hàng năm thu hút được rất nhiều khách hành hương xin lộc thánh.

Đền Bảo Hà được cấp chứng nhận khu di tích lịch sử văn hóa quốc gia tháng 11 năm 1997, toạ lạc dưới chân đồi Cấm, thuộc địa phận huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; cách Tp. Lào Cai khoảng 60km về phía nam; cách ga xe lửa Bảo Hà khoảng 800m. Đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bẩy, một anh hùng miền sơn cước đánh giặc phương Bắc bảo vệ bản làng. Đền được coi là rất linh thiêng, ẩn chứa trong mình nét văn hoá tâm linh nên hàng năm thu hút được rất nhiều khách hành hương xin lộc thánh.
Tương truyền, vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786 ) khắp vùng Quy Hóa gồm Châu Thủy Vĩ và Châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc vùng phương Bắc tràn sang cướp phá, giết hại dân lành. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Nguyễn Hoàng Bẩy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến không cân sức với quân giặc, ông đã anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng đã vớt, an táng thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của ông.
Đền Bảo Hà có lưng tựa vào núi, mặt hướng theo dòng nước sông Hồng và nơi đây còn có sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên với kiến trúc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam theo thuyết phong thủy.
Phong cảnh thiên nhiên nơi đây thật hữu tình: trên bến, dưới thuyền, xung quanh là núi rừng bao la, rộng lớn xanh mướt một màu.
Đền Bảo Hà gồm cổng tam quan, sân đền, nhà khách, phủ chúa Sơn Trang, tòa đại bái, cung cấm, cung nhị, cung công đồng với diện tích, bài trí các pho tượng khác nhau, kiến trúc đơn giản không cầu kỳ.
Hội chính đền Bảo Hà được tổ chức vào ngày 17 tháng 7 âm lịch hàng năm (ngày giỗ tướng Hoàng Bảy), thu hút đông đảo du khách trong và ngoài vùng đến dự.
Trong lễ hội có tổ chức rước kiệu, tế thần, dâng hương tưởng niệm, cùng các hoạt động văn hoá - thể thao khác. Ngoài những ngày lễ hội, những ngày thường (đặc biệt là vào mùa xuân) khách thập phương trong cả nước vẫn thường xuyên tụ họp tại đây để thắp hương tưởng niệm, cầu an, cầu lộc.
Sự tích kỳ lạ của đền ông Bảy
Đến với đền Bảo Hà du khách đừng lo đi sớm hay đến muộn. Đền mở cửa 24/24.Những giá đồng ông Bẩy luôn nhộn nhịp suốt đêm, cực kỳ sôi động.

Sự tích quan đệ ngũ tuần tranh

Sự tích quan đệ ngũ tuần tranh
Quan lớn đệ ngũ còn gọi là Quan lớn Tuần Tranh là Tôn quan thứ 5 trong Ngũ vị Tôn ông. Nhiệm vụ của Ngài là thống quản nhân gian, thống lĩnh thiên âm binh. Sắc phong “Đệ ngũ Tôn quan Thượng đẳng Tối linh thần – Cao Lỗ Đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh”
Ngài là con trai của Vua Cha Bát Hải Đồng bằng giáng hạ trần gian làm vị tướng quân tài ba kiêm quản thủy bộ, được giao quyền trấn giữ duyên hải sông Tranh. Ngài được phong làm Công hầu. Số trời đã định, Ngài có cảm tình với người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nàng cũng đáp lại tình cảm của Ngài nhưng không cho Ngài biết là đã có chồng. Khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông tội quyến rũ vợ mình. Ông bị hàm oan và bị đày lên chốn Kì Cùng Lạng Sơn. Tại đây Ngài đã tuẫn tiết để chứng minh sự trong sáng của mình. Dải lụa đào tuẫn tiết đó biến thành đôi bạch xà bơi xuôi về quê hương Ninh Giang.
Ở Ninh Giang có ông bà già nọ không con một hôm đi ra sông bắt được 2 rắn đem về nhà nuôi, yêu quý như con, hai rắn ăn nhiều không xuể, ông bà phải đi ăn trộm thức ăn của hàng xóm để nuôi hai bạch xà. Quan phủ biết chuyện, bắt ông bà lên chịu tội, ông bà đành thú thực tường khai, Quan đòi giết rắn, ông bà thương quá cãi lệnh quan, đánh liều thả rắn ra dòng sông Tranh, từ đó chỗ thả rắn tạo thành dòng xoáy dữ dội, thuyền bè qua đó đắm vô số.
Đến đời Thục Phán, vua tập hợp binh lính chống giặc phải đi qua sông Tranh, nhưng tới đó không thể nào qua nổi, Vua gọi lão làng tới cầu đảo, Ngài ứng hiện lên nói rõ sự tình xưa và nói sẽ phù Vua đánh giặc. Khi dẹp xong, Vua về giải oan cho Ngài, phong cho Ngài là “Giảo Long Hầu” Ngài cũng chính là tướng quân Cao Lỗ, người giúp vua Thục Phán hộ quốc an dân, chế tạo nỏ thần và dựng Thành Cổ Loa.
Trong các vấn hầu, Ngài đều giáng ngự, Ngài mặc áo đai mạng màu lam, tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp, lễ vật rồi múa thanh long đao.
Đền chính của quan là đền Tuần Tranh ở Ninh Giang Hải Dương và đền Kì Cùng ở Lạng Sơn.
Ngày đản sinh 14 tháng 2 và hóa ngày 25 tháng 5.
Văn QUAN ĐỆ NGŨ TUẦN TRANH
Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:
“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”
Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:
“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”
Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”
Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:
“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”

QUAN ĐỆ TỨ KHÂM SAI



Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai
Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai là quan lớn đứng hàng thứ tư trong Ngũ vị Tôn Ông. Đền Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai tọa ở Phố Đông Thái, Thị Trấn Vĩnh Bảo, Huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng. Nơi đây là nơi thờ chính của Ngài.
Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Quan lớn vốn là con trai thứ tư của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Được vua cha giao quyền trấn giữ đồng bằng địa linh, khâm sai tứ phủ (có người cho rằng, trong các quan thì ông trấn ở trung tâm trời đất), tuy thế nhưng ông thường ngự trên Thiên Đình, biên chép sổ sách sinh tử, chầu chực bên bệ ngọc bàn loan. Cũng như Quan Đệ Nhất, Quan Đệ Tứ không giáng trần.
Trong tòa quan lớn, Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai ít khi giáng đồng nhất, cũng chỉ khi nào có đại lễ mới thỉnh ông về. Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương khai quang rồi chứng sớ điệp. Thông thường, khi mở phủ khai đàn, người ta mới hay thỉnh Quan Đệ Tứ về để chứng đàn Địa Phủ (gồm long chu, phượng mã, tượng phục, nghê quỳ (voi và nghê hoặc lân)… tất cả đều màu vàng) Vì không giáng trần nên Quan Đệ Tứ cũng không có đền thờ riêng mà chỉ được thờ ở hầu hết các phủ đền trong Năm Tòa Ông Lớn (ông ngồi bên trái Quan Giám Sát hoặc bên phải Quan Tam Phủ). Còn ngày tiệc ông thì có tài liệu nói là 24/4 (nhưng nguồn tài liệu chưa chắc chắn nên chỉ đưa ra để tham khảo). Khi thỉnh Quan Đệ Tứ văn hay hát là:
Tiệc bàn loan thỉnh mời quan đệ tứ
Vốn con trời cai xứ thiên cung
Sắc rồng choi chói vua phong
Quyền Quan Đệ Tứ uy hùng dậy vang
Chuyển quan san trên trời dứoi đất
Quản thông tri phép phật truyền ra
Cầu ô bắc sông Ngân Hà
Liệt hàng tinh tú bày ra ngang trời
Thử dạo chơi sao sa lác đác
Cửu Diệu cùng đài các đế tinh
Tam quang thất đẩu ngũ hành
Nhị thập bát tú thiên đình hà sa
Mới tâu qua Nam Tào Bắc Đẩu
Số trần gian lão ấu chép biên
Ai ngừoi hiếu thuận thảo hiền
Tu nhân tích đức chép biên rõ ràng
bao nhiêu kẻ ngang tàng bạo ngựoc
chỉ hại ngừoi chẳng trứoc thời sau
Lỗi lầm có xá chi đâu
bao nhiêu đệ tử cúi đầu làm tôi
Phú:
Y quan văn vật
nổi dấu thiêng tứ phủ vạn linh
Sơn xuyên dục tú hà hải chung linh
Thiên niên dốc một bầu vũ trụ
Trên phù tía ngai vàng lồ lộ
vẻ lâu đài in bóng tranh vanh
bảng vàng thiên cổ vị nhân
Gồm nam bắc thu về một mối
Kỳ lễ nghĩa văn minh chi hội
Dưong thanh danh vạn vật chi đô
Vang tiếng để sơn thần cung kiệt.

NGŨ VỊ TÔN QUAN , NGŨ VỊ TIÊN ÔNG

Ngũ vị tôn quan
Trong các ban thờ công đồng Tứ phủ hiện nay thì ngoài lớp tượng vua cha Ngọc hoàng thượng đế luôn có tượng 5 vị tôn quan trong 5 màu sắc áo đỏ, xanh lá cây, trắng, vàng và xanh tím. Sau các đức vua cha và thánh mẫu thì 5 vị quan lớn này là những nhân vật quan trọng hàng đầu của tín ngưỡng Tứ phủ. Tên gọi và chức danh của Ngũ vị tôn quan như sau:
1. Quan đệ nhất thượng thiên. Tước phong Đào tiên đệ nhất – Điều thất hoàng thái tử.
2. Quan đệ nhị giám sát. Tước phong Nhạc thần đại vương – Đô đài giám.
3. Quan đệ tam ở đền Lảnh Giang. Tước phong Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương.
4. Quan đệ tứ khâm sai. Tước phong Thiên Hựu đại vương.
5. Quan đệ ngũ tuần tranh
Thân thế các vị tôn quan theo các thần tích ở đền Đồng Bằng (An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình) hay đền Lảnh Giang (Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam) được biết là con vua cha Bát Hải (vua cha Thoải phủ), đã đầu thai sinh cùng một trứng, hóa thành các thần rắn, rồi lên trần gian phù giúp vua Hùng đánh Thục.
Trong bài viết Bạch Hạc Tam Giang đã chỉ ra rằng truyện về các vị thần sông Bạch Hạc (Lĩnh Nam chích quái) là Thổ Lệnh và Thạch Khanh hay tục thờ Trung Thành Phổ Tế đại vương ở vùng Phú Xuyên có quan hệ với Ngũ vị tôn quan của tín ngưỡng Tứ phủ. Thổ Lệnh hay Trưởng Lệnh là Quan lớn đệ tam, thác hóa ở khu vực thôn Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên), gần đền Lảnh Giang. Lảnh có thể là từ đọc khác của Lệnh.
Còn vị thần Bạch Hạc thứ hai Thạch Khanh là Quan đệ ngũ tuần Tranh. Cái tên Thạch Khanh và Tranh cận âm. Vị thần này còn được nhắc đến ở làng Đống Tranh (Minh Cường, Thường Tín) trong tục thờ Trung Thành Phổ Tế đại vương.
Trong thần tích ở làng Đa Chất thì 3 người anh em con của Đào Công Bột là ông Cự, Hồng và Quý Lân sau khi đánh Thục ở lần đầu đã hóa trước. Tiếp theo chỉ còn Trưởng Lệnh và Thạch Khanh lập công đánh Thục. Đây là điều giúp lý giải việc hai vị quan đệ tam và quan đệ ngũ là hai giá đồng thường gặp, trong khi ba vị quan còn lại rất hiếm khi giáng đồng.
Tiếp tục truy tìm vết tích của 3 người anh em họa Đào đã hóa trước này. Sự tích về các vị quan lớn của Tứ phủ có cho biết: Quan đệ nhất là Đức Thánh Cả, Quan đệ nhị là Đức Thánh Trung và Quan đệ tứ là Đức Thánh Hạ, đã thác hóa ở sông Đáy tại Vân Đình. Hiện ở khu vực Vân Đình (Ứng Hòa, Hà Nội) có các đền thờ 3 vị thánh này. Đền Đức Thánh Cả nằm ở thôn Thái Bình với sự tích kể rằng đây là một vị tướng giúp vua Hùng đánh giặc nhà Ân ở vùng châu Hoan châu Ái. Đức Thánh Cả ở Thái Bình có tên được thờ là Bột Hải
Câu đối tại đền Thái Bình:
第六代雄王神將揮刀鯨刳鰐断
幾千秋東海殷兵絶命戟折舟沉
Đệ lục đại Hùng Vương, thần tướng huy đao, kình khô ngạc đoạn
Kỷ thiên thu Đông Hải, Ân binh tuyệt mệnh, kích chiết chu trầm.
Dịch:
Hùng Vương thứ sáu triều xưa, thần tướng vung đao kình đứt sấu đoạn
Biển Đông nghìn thu thủa trước, quân Ân hết số kích gãy thuyền chìm.
Cái tên Bột Hải hoàng đế của Đức Thánh Cả đã xác nhận mối liên hệ vị thánh này với Ngũ vị tôn quan con vua Bát Hải và 5 anh em con ông Đào Công Bột. Bột hay Bát là số 8, chỉ hướng Đông. Trong câu đối trên cũng nói rõ nơi Đức Thánh Cả lập công trạng là biển Đông. Bột Hải hay Bát Hải là biển Đông, là nơi xuất thế của vua cha Bát Hải Động Đình hay nơi trị nhậm của Đào Công Bột (Hải Dương).
Khác với thần tích về Ngũ vị tôn quan, Đức Thánh Cả ở Vân Đình không phải giúp vua Hùng 18 đánh Thục mà là giúp vua Hùng thứ 6 đánh giặc Ân, nhưng lại ở “châu Hoan, châu Ái”. Rõ ràng trận thủy chiến đánh giặc Ân ở châu Hoan, châu Ái này không phải trận chiến trên cạn của Thánh Gióng diệt giặc Ân ở núi Trâu Sơn – Vũ Ninh.
Để lý giải sự khác biệt này cần nhắc lại bản chất cuộc chiến Hùng Thục thời vua cha Bát Hải Động Đình. Đây là cuộc chiến tranh giành vương vị của ông Khải – Lạc Long Quân với ông Ích sau khi Đại Vũ – Kinh Dương Vương mất. Ích cũng là Ất, là số 2 trong thập can (Giáp, Ất…). Địa bàn gốc của tộc người theo Bá Ích là vùng cựu đô Ngàn Hống ở châu Hoan từ thời Hoàng Đế – Đế Minh. Vì thế thần tích về Đức Thánh Cả ở Thái Bình đã kể thành Hùng Vương thứ sáu (Hùng Lục Vương hay Lạc Vương) đánh giặc Ân ở Hoan Ái. Ân hay ơn là số 2. Ái cũng là từ biến âm của Ích – Ất.
Dòng tộc theo Bá Ích do cuộc chiến này đã phải chạy sang phía Tây, sau nhiều đợt di cư đến đất Kỳ Sơn ở Quý Châu. Do đó dòng tộc này được gọi là Thục (thục nghĩa là chín, cùng âm với số 9, chỉ hướng Tây) hay Di Hạ (Di Hạ phiên thiết cho từ Dạ, là nước Dạ Lang ở vùng Vân Nam Quý Châu). Lạc Long Quân giành chiến thắng, khởi đầu nhà Hạ ở vùng ven biển Đông, được truyền thuyết và tín ngưỡng Việt tôn là vua cha Bát Hải Động Đình của Thoải phủ, mở mang Hoa Đào Trang ở đất Thái Bình.
Ngũ vị tôn quan như vậy là 5 vị đại công thần lập quốc của Lạc Long Quân, được tôn thờ thành các thủy thần trên các dòng sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tranh,… và là những vị quan “trị sự” hàng đầu trong Tứ phủ công đồng.

Tứ PHỦ THÁNH CÔ



Tứ PHỦ THÁNH CÔ
1. Cô Đệ Nhất Thượng Thiên
Cô Nhất Thượng Thiên. Cô cũng vốn là con Vua Cha dưới Thủy Tề dưới Thoải Cung, được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình. Có người nói rằng cô cũng với Cô Chín hầu cận bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (tức Mẫu Liễu Hạnh) lại có nơi quan niệm cô là Tiên Cô kề cận, tay biên tay chép kề bên Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (tuy nhiên do có quan niệm là Mẫu Đệ Nhất cũng chính là chầu cho nên hai ý kiến này hầu như là thống nhất với nhau). Cô giá ngự trong cung tòa, cận bên Mẫu cho nên khi đến các đền phủ người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ. Khi thanh nhàn cô cưỡi gió cưỡi mây rong chơi khắp chốn, từ Hà Nội,
Hải Phòng, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa cho đến tận Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Định...
Cô là tiên cô thần thông lục trí, cô chấm đồng người nết na thảo hiền rồi đem về tiến Mẫu trong Đền Sòng Sơn. Cô Nhất khá ít khi ngự đồng, chỉ những người sát căn cô mới hay hầu cô hoặc trong các dịp khai đàn mở phủ Cô Nhất về chứng đồng tân lính mới. Khi ngự về Cô Nhất mặc áo màu đỏ (áo gấm hoặc áo lụa thêu phượng), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), thắt khăn và vỉ lét đỏ. Cô làm lễ khai cuông rồi múa quạt. Cô Nhất thường được thờ vào ban Tứ Phủ Thánh Cô ở trong các bản đền.
Cũng có một số người nói rằng có đền cô là Đền Cô Nhất ở trong đất Nghệ An giáp Thanh Hóa với món đặc sản bánh ngào.
2.Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa, ra vào hầu cận bơ tòa Vua Mẫu trong điện ngọc, nơi tiên cảnh. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất ở chốn sơn lâm, khi hạ sinh, Cô Đôi rất xinh đẹp: da trắng, tóc xanh mượt mà, mặt tròn, lưng ong thon thả.
Lễ hội Đền Đông Cuông
Sau này cô quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ Nhị.
Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu
nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục.
Đền Đông Cuông nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn và Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn.
Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng. Trong đại lễ khai đàn mở phủ người ta thường dâng lễ vàng cây lên 5 tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Sáu, Cô Chín và Cô Bé, trong đó Cô Đôi thường là giá cô ngự về đầu tiên (mở khăn cho hàng cô) để chứng lễ. Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc cho đồng tử.
Đền Đông Cuông
Vì Cô Đôi Thượng hầu cận bên Mẫu Đông Cuông nên đền cô cũng được lập gần Đền Đông Cuông, trong đền thờ Cô Đôi và Cô Bé Đông Cuông, cách đền chính khoảng 500m, trước cửa đền có giếng nước quanh năm trong mát. Nhưng chính đền của cô lại là Đền Cô Đôi Thượng Ngàn tại xã Nho Quan, Ninh Bình (qua rừng quốc gia Cúc Phương) thuộc làng Bồng Lai .
3. Cô Ba Thoải Cung (Cô Bơ)
Cô vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải Cung Công Chúa, giá ngự vào ra trong Cung Quảng Hàn. Có người còn nói rằng, Cô Bơ là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm. Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng.
Tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai.
Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao. Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong Mục.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này).
Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi (có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô.
Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương.
Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.
Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà).
Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi.
Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh.
Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn
Đền cô là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng
4. Cô Tư Ỷ La, Cô Tư Địa Phủ
Cô Tư Ỷ La cũng vốn là con vua Đế Thích chính cung.
Theo lệnh vua cha, cô theo hầu Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang. Về sau, nơi Mẫu giá ngự đó, người ta lập đền Mẫu Ỷ La nên cô cũng được gọi là Cô Tư Ỷ La. Tương truyền rằng,
Mẫu bà rất yêu quý, thường cho Cô Tư kề cận bên mình. Vậy nên đúng như các tư liệu ghi lại thì chính xác là Cô Tư hầu cận Mẫu Thượng Ngàn chứ không phải cô hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như chúng ta vẫn thường nghĩ.
Ngoài ra Cô Tư còn có một danh hiệu khác là Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ. Qua ước đoán, có thể suy ra rằng danh hiệu này là do Cô Tư đã từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội rong chơi, và điển hình nhất là hiện nay vẫn có ban thờ Cô Tư tại đình Tứ Liên; một ngôi đình cổ nằm ở gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.
Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường hiếm khi thấy ngự về đồng nên nếu nói về y phục cũng như cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện giờ là rất khó.
Tuy nhiên theo phỏng đoán của người viết thì có thể khi hầu giá Cô Tư Ỷ La thường mặc xiêm áo màu vàng nhạt, cô có thể khai cuông và múa mồi hầu Mẫu (đây chỉ là ý kiến cá nhân đưa ra để mọi người tham khảo).
Hiện nay Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, như đã nói ở trên, Cô Tư còn được thờ vọng trong Đình Tứ Liên ( xưa gọi là Đình làng Ngoại Châu), phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khi các thanh đồng hầu tráng mạn đến giá Cô Tư,
5. Cô Năm Suối Lân
Cô Năm Suối Lân vốn là tiên nữ trên trời, theo lệnh cô giáng trần là người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Có tích lại kể rằng Cô Năm là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân ( lúc sinh thời khi chầu còn là công chúa) nên cô cũng được tôn hiệu là Cô Năm Suối Lân hay Cô Năm Sông Hoá. Sau này được sắc phong hiển thánh,
Cô Năm vẫn được coi là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm, cô được coi là tiên cô trông giữ bản đền Suối Lân. Ngoài ra cô còn được coi là vị thánh trấn tại cửa rừng Suối Lân (cung rừng này một cửa vào là cửa Suối Lân do Cô Năm Suối Lân trấn giữ, cửa ra là cửa Thất Khê do Cô Bé Đèo Kẻng trấn giữ), vậy nên, ai đi chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô Năm Suối Lân. Dòng Suối Lân do Cô Năm cai quản bốn mùa trong xanh, nước thông về sông Hoá, tương truyền rằng đây là dòng suối thiêng của cô, nước suối xanh mát bốn mùa không bao giờ cạn, nếu ai có bệnh tật đến xin nước suối cửa cô, uống vào sẽ thuyên giảm, nhược bằng, người nào không biết mà xuống suối tắm hay rửa chân tay, làm ô uế dòng suối của cô sẽ bị cô hành cho sốt nóng mê sảng.
Phép anh linh của Cô Năm Suối Lân còn được biết qua việc nếu có kẻ nào báng nhạo cô sẽ “xát lá han” làm cho kẻ đó luôn ngứa ngáy không yên, rồi cô cho đi lạc đường rừng.
Trong hàng thánh cô, thường thấy Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng hơn Cô Sáu Lục Cung, thường chỉ người nào có sát căn quả về cửa Cô Năm hoặc khi về đền Suối Lân thì có thấy thỉnh bóng Cô Năm ngự đồng.
Khi hầu về giá Cô Năm Suối Lân, thường người ta mặc xiêm y như màu áo của Chầu Năm (nhưng là áo ngắn vạt), đó có thể là màu xanh thiên thanh hoặc xanh lá cây, cô chít khăn củ ấu, bên mình có túi vóc, dao quai. Ngự đồng cô khai cuông rồi múa mồi.
Hiện nay Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền chính của cửa Chầu Năm Suối Lân (huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn).
6. Cô Sáu Lục Cung, Cô Sáu Sơn Trang
Cô cũng vốn là thánh cô nguyên tích là người Nùng ở đất Hữu Lũng, Lạng Sơn. Có thuyết thì nói rằng Cô Sáu là tiên cô kề cận bên cửa Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu (chưa xác định rõ), còn lại đa phần đều thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương nên cô mới được gọi là Cô Sáu Lục Cung hay còn có danh khác là Cô Sáu Sơn Trang. Khi nhân dân lập đền thờ phụng Chầu Bà, vẫn thỉnh Cô Sáu là cô trấn bản đền Lục Cung. Ngoài ra, theo một số tích cũ kể lại,
Cô Sáu Lục Cung sinh thời là người con gái xinh đẹp nết na, lại có tài chữa bệnh, cô thường đi khắp rừng sâu núi thẳm để hái thuốc cứu người vậy nên khi hiển thánh,
Cô Sáu vẫn thường được muôn dân tôn là tiên cô có tài chữa bệnh cứu người, dân chúng khắp nơi về cửa cô để xin thuốc tiên trị bệnh. Cô Sáu Sơn Trang cũng nổi tiếng đành hanh trên đời, nghiêm khắc trừng trị kẻ nào nhạo báng cửa cô.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung rất hay về ngự đồng. Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng không chỉ có khi về đền Lục Cung, về đất Lạng Sơn mà cả khi khai đàn mở phủ hay trong cả những dịp hầu vui, đón tiệc tiên thánh.
Cô Sáu ngự đồng thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm (ngắn vạt rộng tay). Cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô trên Thượng Ngàn khác.
Hiện nay Cô Sáu Lục Cung chính là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư, cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương (Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn).
7. Cô Bảy Tân La, Cô Bảy Kim Giao, Cô Bảy Mỏ Bạch
Cô Bảy Kim Giao. Cô vốn cũng là một tiên cô người dân tộc Mọi ở đấy Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên. Theo một số tích nói rằng cô cũng là người kề cận bên Chầu Bảy nên cũng được gọi là Cô Bảy Kim Giao hay còn có hiệu khác là Cô Bảy Tân La ( khi cô được theo hầu cận Chầu Bảy tại đền Tân La). Tương truyền rằng cô cũng là vị thánh cô có công giúp người dân Mọi biết trồng trọt chăn nuôi rồi cô cũng có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc.
Vậy theo một số tài liệu thì chính xác Cô Bảy là Cô Bảy Kim Giao hay Cô Bảy Tân La (theo hầu Chầu Bảy Kim Giao) chứ không phải là Cô Bảy Tân An (theo hầu Ông Bảy Bảo Hà ) như một số người vẫn nói.
Còn có sự tích nói rằng, đêm đêm cô thường hội họp cùng các bạn tiên nàng, mắc võng đào giữa hai cây kim giao rồi cùng đàn hát.
Trong hội đồng Thánh Cô, Cô Bảy Kim Giao là một trong số các cô ít khi ngự đồng nếu không nói là hầu như không thấy. Vậy nên nếu để nói đến y phục và cung cách hầu giá Cô Bảy là rất khó, theo phỏng đoán của người viết thì có thể giá Cô Bảy Kim Giao mặc áo tím hoặc chàm xanh, cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi.
Hiện nay, Cô Bảy vẫn được thờ làm cô bản đền tại chính cung Đền Kim Giao (Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên) và còn cả tại đền Tân La ( Dốc Lã, Bảo Khê, Hưng Yên).
Khi hầu tráng mạn đến giá Cô Bảy Kim Giao
8. Cô Tám Đồi Chè
Có một số ý kiến thống nhất rằng: Cô giáng sinh dưới thời Lê Thái Tổ dấy binh khởi nghĩa, cô là người thiếu nữ trồng hái búp chè tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá. Cô cũng có công giúp vua trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm nên khi thác hoá về trời, cô được phong công lập đền thờ, trấn giữ một bên bến song Đò Lèn, Phong Mục.
Cô sinh thời là người con gái đảm đang nết na tần tảo, hái búp chè xanh trên đồi thường dung làm thuốc chữa bệnh nên mọi người thường tôn hiệu là Cô Tám Đồi Chè. Khi thanh nhàn, cô thường đủng đỉnh dạo chơi khắp vùng Hà Trung, Thanh Hoá, cũng có khi cô hiện hình bẻ lái con thuyền độc mộc trên dòng sông Mã.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi về ngự đồng, chỉ có người nào sát về Cô Tám hoặc khi hầu đón tiệc tháng 6 tại các đền ở vùng Thanh Hoá. Cô Tám Đồi Chè ngự đồng thường mặc áo xanh quầy đen ( có nơi là áo tím hoa cà ) .
Cô Tám cũng khai quang sau đó múa mồi, sau đó thường là múa tay tiên các điệu như người đi hái chè trên non. Hiện nay đền thờ Cô Tám Đồi Chè được thờ riêng tại đền cô thuộc đất Phong Mục, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nếu đi từ đền Cô Bơ sang thì qua đò Lèn, đền cô rất khang trang nhưng ít người biết tới.
9. Cô Chín Sòng Sơn, Cô Chín Thượng Ngàn
Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .
Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam , sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng , nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa , cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai , có khi cô máu quạt tiến Mẫu , múa cờ tiến Vua , cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa , rồi lại múa cánh tiên .
Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh .Ở một số địa phương đều thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng
10. Cô Mười Mỏ Ba
Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba , giúp vua đánh giặc Ngô ,khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc , sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười
11. Cô Bé Thượng Ngàn
Cô Bé Thượng Ngàn là Tiên Cô mà tên gọi thường được đặt theo tên các địa danh, các đền thờ. Các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm:
Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê).
Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
Cô Bé Tân An (Lào Cai)
Từ rất xa xưa, bên bờ sông Hồng tại thôn Tân An 2 thuộc xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đã có một ngôi Đền gọi là Đền Cô Tân An (còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), là nơi thờ tự một nữ chúa có tên húy là Hoàng Bà Xa, tương truyền đã cùng cha là đức quan ngài Hoàng Bảy, có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) suy tôn là vị Thánh Mẫu. Đối diện bên kia sông là đền Bảo Hà (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai)- thờ Đức quan ngài Hoàng Bảy.
Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Trần (thế kỷ XV), ở tổng Minh Lương, thuộc xã Lang Quán ngày nay có hai vợ chồng, ông chồng là người Dao, bà vợ là người Mường tuổi đã cao mà chưa có con. Ngày ngày ông bà ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi. Một hôm, ông ở nhà, bà đi xúc tép như mọi ngày, nhưng xúc mãi không được con gì mà chỉ được hai quả trứng lạ.
Bực mình, bà xuống hạ nguồn rồi lên tận thượng nguồn ngòi Lịch xúc vẫn chỉ được hai quả trứng ấy. Bà đành mang về thả vào chum nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, đặt tên là Minh Lương. Cùng lúc đó, hai quả trứng thả trong chum nước dưới cầu thang nở ra hai con rắn. Hai con rắn và cô bé Minh Lương cùng lớn lên, quấn quýt làm bạn với nhau.
Một buổi chiều, ông bà đi làm về và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé.
Sẵn con dao rựa đeo bên người, ông tức giận rút dao vừa chém, vừa nói “Mày hại tao à”. Hai con rắn sợ quá chạy trốn, nhưng một con chậm hơn đã bị chém đứt đuôi. Ông đuổi hai con rắn và nói: “Cụt đi hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.
Ông bà xót thương cô bé, không nỡ chôn, nên đặt cô nằm ở trên sàn. Đến sáng đã thấy mối đùn lên đắp mộ cho cô bé. Dân làng thấy vậy đều cho là cô đã linh hoá nên lập miếu thờ. Thời kỳ giặc Cờ đen, cô bé Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm, sau đó dũng mãnh dẹp sạch giặc Cờ đen. Sau đó Cô còn hiển linh bốc thuốc, giúp dân chữa bệnh thoát cơn hiểm nghèo

Văn khấn ở đền tham khảo


Nam mô A di Đà Phật!
Nam mô A di Đà Phật!
Nam mô A di Đà Phật!
Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số Đức Phật công đức, công lượng vô biên. Đệ trước án tiền, kính lạy Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cung Phật thỉnh Thánh, cung thỉnh thiên cung tấu thỉnh thiên đình, sám hối tam phủ thần vương, tứ phủ thánh đế.
Con xin sám hối Thiên phủ Thánh Đế - Cao thiên Thượng thánh- Đại từ Nhân giả - Huyền khung Cao Thượng đế -Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn.
Con sám hối Nhạc Phủ Thánh Đế - (Tản Viên Sơn Thánh) - ngũ nhạc thần vương - năm phương sơn động.
Con sám hối Thủy Phủ Thánh Đế - (Lạc Long Quân Đại Đế) - Bát Hải Long Vương - tám phương cửa bể.
Con sám hối Địa phủ Thánh Đế- Thập điện Minh Vưong tòa Chương Địa phủ, Bắc Cực Trung Thiên Tam nguyên tam phẩm tam quan.
Con sám hối Đại Thánh Nam Tào Lục Ty duyên thọ tinh quân
Con sám hối Đại Thánh Bắc Đẩu Cửu hoàn giải ách tinh quân, Cửu tinh thiên chúa thập nhị bát tú chư bộ thiên binh chư dinh văn võ.
Con sám hối tấu lạy Quốc Mẫu vua bà bơ tòa tiên thánh tứ phủ Thánh Mẫu:.
Kính lạy Cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa Thiên tiên thánh mẫu.
Kính lạy Địa tiên Thánh mẫu Quỳnh hoa Liễu Hạnh Vân Hương Thánh Mẫu - Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương thiên tiên Thánh Mẫu.
Kính lạy Thánh Mẫu Đệ Tam thủy cung, Xích Lân long Nữ,Thủy Tinh Công chúa
Kính lạy Đức Mẫu thượng ngàn Diệu Nghĩa Diệu Tín thiền sư Tuần Quán Đông Cuông đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
Con lạy trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại Vưong Trần triều Khải Thánh , Vương Phụ Vưong mẫu Vương phu nhân
Tứ vị Vưong tử- Nhị Vị Vương cô- vương tế vương tônLiệt vị tướng tướng công đồng Trần Triều
Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh, Bách vị các quan ngũ vị tôn quan
+ Quan đệ nhất Thượng Thiên
+ Quan đệ nhị thượng ngàn
+ Quan đệ tam thoải phủ
+ Quan đệ tứ khâm sai
+ Quan đệ ngũ tuần tranh
Con sám hối điều thất tôn quan- Hoàng triệu tôn quan
Con lạy tứ phủ chầu bà thập nhị chầu bà
+ Chầu đệ nhất thượng thiên
+ Chầu đệ nhị thượng ngàn
+ Chầu đệ tam thủy phủ
+ Chầu đệ tứ khâm sai
+ Chầu năm Suối Lân
+ Chầu sáu Lục Cung
+ Chầu bảy Kim Giao
+ Chầu tám Bát Nàn
+ Chầu chín cửu tỉnh
+ Chầu mười Mỏ Ba
+ Chầu Bé Bắc Lệ
+ Chầu bà bản đền
Con lạy Tứ phủ thánh hoàng thập vị thánh hoàng. Sám hối ông bơ thoải quốc, ông bảy Bảo Hà, ông mười Nghệ An
Sám hối tứ phủ thánh cô
+ Cô đệ nhất thượng thiên
+ Cô đôi Đông Cuông
+ Cô bơ Thác Hàn
+ Cô tư địa phủ
+ Cô năm Suối Lân
+ Cô sáu Lục Cung
+ Cô bảy Kim Giao
+ Cô tám đồi chè
+ Cô Chín Sòng Sơn
+ Cô mười Đồng Mỏ
+ Cô bé sơn lâm
+ Cô bé bản đền
Sám hối tứ phủ thánh cậu: Cậu Cả, cậu Đôi, cậu Bơ,cậu Bé
Con lạy Ngũ dinh Thần tướng, Ngũ hổ Thần quan.
Con lạy Thanh xà Tướng quân, Bạch xà Tướng quân
Con lạy công đồng các bóng các giá, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
Con lạy chầu chúa thủ đền cùng quan thủ điện, thổ địa thần kỳ thần linh bản xứ
Đê tử con là:.............................................. .................................
Ngụ tại:............................................ .................................................
Kim niên kim nguyệt ,cát nhật lương thời
Mậu tý niên...nguyệt.....thời
Đệ tử con nhất tâm nhất lễ đêm tưởng ngày mong nhất tâm chí thiết nhất dạ chí thành, nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật tờ đơn cánh sớ, mang miệng tới tâu, mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ .
Trên mẫu độ dưới gia hộ mẫu thương, vuốt ve che chở, phù hộ độ trì cho con ba tháng hè chín tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối: Tứ thời bát tiết, tháng thuấn ngày nghiêu, phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.
Mẫu cho con được sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân cho tài mùa hạ, cho tươi như lá cho đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới,
Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở,lộc gần lộc xa, hồ hết lại có hồ vơi lại đầy, điều lành mang đến điều dữ mang đi.
Mẫu cứu âm độ dương cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát cải hạo vi tường, thay son đổi số nảy mực cầm cân.
Mẫu phê chữ đỏ Mẫu bỏ chữ đen, cho con đựơc trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu trên vì dưới nể, cho gặp thầy gặp bạn gặp vạn sự lành.
Mẫu ban danh ban diện ban quyền, cho con có lương có thực có ngân có xuyến, tài như xuyên chí lộc tựa vân lai, cầu tài đắc tài cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an. Trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá phúc lộc đề đa, cho trên thuận dưới hòa, trên bảo dưới nghe trên đe dưới sợ.
Mẫu cho nước chảy một dòng, thuyền xuôi một bến, bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ. Năm xung Mẫu giải xung, tháng hạn giải hạn, cho gia chung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh, duyên sinh trường thọ
Đệ tử con người trần mắt thịt nhỡn nhục nan chi việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh ăn, con ăn chưa sạch, con bạch chưa thông, ăn chưa nên đọi, nói chưa nên lời, không biết kêu sao cho thấu, tấu sao cho tường ,
Con biết tới đâu con tâu tới đấy, ba điều ko sảy bảy điều ko sai.
Trăm tội mẫu xá vạn tội mẫu thương.Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm.
Mẫu soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần
Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành con giàu một bó con khó một nén giàu làm kép hẹp làm đơn, Thiếu mẫu cho làm đủ vơi mẫu cho làm đầy .
Mẫu chấp kỳ lễ vật-- chấp lễ chấp bái
Chứng tâm cho lời kêu tiếng khấn của con bay như phượng lượn như hoa tới cửa ngài ngồi tời ngai ngài ngự.
Cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm .
Con nam mô a di đà phât(3 lần)

BÀI THAM KHẢO ĐỨC THÁNH TRẦN TRIỀU ( HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG)

thánh Trần tại sao cũng cùng giòng tu tiên với tứ phủ tham khảo
Tín ngưỡng thờ Đức Thánh trần là tín ngưỡng dân gian Việt nam, được hình thành từ quá trình thánh hóa, thần hóa một nhân vật có thật trong lịch sử, anh hùng dân tộc Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, ông là vị thánh phù hộ cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, hộ quốc an dân, diệt trừ tà ma và chữa bệnh.
Đức Thánh Trần tên thật là Trần Quốc Tuấn, mất ngày 20/8, ông là con trai thứ của Trần Liễu, anh trai vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh), về gốc tích ra đời của ông dân gian truyền lại, ông chính là Thanh tiên đồng từ trên Thiên Đình phụng lệnh Ngọc Hoàng đầu thai xuống hạ giới mang theo phi thân kiếm, cờ ấn, tam bảo của Lão Tử, Ngũ Tài của Thái Công .Như vậy xét về nguồn gốc nhà Trần cũng xuất phát từ dòng tu tiên Đạo giáo, gốc của pháp Tứ Phủ (Đạo Mẫu) chính là Tam Phủ (Đạo Tiên). Nhà Trần không thuộc Tứ Phủ có lối thờ phụng riêng và phép tắc khác bên Tứ Phủ - nhưng Thần Chủ của Tứ Phủ và của bên Nhà Trần đều thuộc dòng Thiên Tiên - tuân chỉ Ngọc Hoàng Thượng Đế mà giáng phàm để cứu dân độ thế, khuyến Thiện phạt Ác - tuy xuất xứ khác nhau nhưng nhiệm vụ thì là một, vì vậy hiện nay có sự phối thờ Trần triều và tứ phủ.
Tương truyền khi Đức Thánh Trần mất, để tránh sự trả thù của quân Nguyên ông truyền lệnh lập mộ giả ở vườn An Lạc, Bảo Lộc ( Hiện nay tại Bảo Lộc có 1 lăng mộ ghi tên Hưng Đạo Đại Vương nhưng thực chất đó là mộ của 1 viên bộ tướng).
Khi hóa Đức thánh đã về thiên đình nhận chỉ của Ngọc Hoàng phong là Cửu Thiên Vũ Đế, với sứ mệnh diệt trừ yêu ma ở cả 3 cõi thiên đình, trần gian, âm phủ.Theo như vị hiệu thì Đức Thánh ngài Cửu Thiên Vũ Đế - Là Thiên Tinh nên tả Nam Tào, hữu Bắc Đẩu phù cho Thiên Tinh. Dân gian đã gắn hình ảnh hai vị tướng tâm phúc nhất của Đức Thánh Trần là ông Yết Kiêu và ông Dã Tượng vào vị trí phò tà của Đức Thánh Trần , khi sang thế giới bên kia họ sẽ trở thành quan Nam Tào, Bắc Đẩu tiếp tục giúp việc Đức Thánh Trần trong việc cứu dân giúp đời.
Trong hàng thánh nhà Trần có thầy dậy Văn và thầy dậy Võ thể hiện Triều đình nhà Trần trọng tài nên có phối Tự chứ từ thời đức Khổng Tử truyền Đạo Nho cho tới triều Trần thì biết bao nhiêu triều đại Vương Hầu Công Tử đều phải có Thầy dạy mới nên bậc hiền tài chứ không chỉ có triều Trần.
Nét đặc sắc khi hầu nhà Trần là phép lên đai thượng, xiên lình, lấy dấu mặn, Đức ông khi thượng đồng xiên lình hai tai và hai lình quân, Tứ vị vương tử ngự đồng lên đai thượng, xiên lình, Vương cô đệ nhị về đồng mang theo cờ kiếm,lấy dấu mặn, Đức ông về chứng. Dấu mặn dùng để chữa bệnh, trị tà, chữa điên, trấn yểm....thường là trấn yểm cho Đền to phủ lớn, trấn những vùng long mạch lớn, nếu dùng máu Thánh để trấn thì khó mà phá được. Phép lên đai thượng, xiên lình, lấy dấu mặn thường chỉ những người căn cao nặng mới hầu được, vì khi lên đai thượng hai người đứng hai bên kéo dây thít chặt vào cổ, mắt ngầu đỏ lộn tròng, mặt hổ phù, nhiều người không phải căn cao mà lên đai thượng chết ngay trên sập hầu. Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng chỉ Đức ông đệ tam mới lên đai thượng vì giống gông xiềng khi bị oan, tuy vậy ý nghĩa thực sự của lên đai thượng là khi lên đai thượng mặt của người hầu sẽ thành mặt hổ phù thể hiện sư uy linh, thần oai của Thánh, vì vậy không chỉ đức ông đệ tam mà tứ vị vương tử khi ngự đồng làm việc đều lên đai thượng, xiên lình. Xiên lình là hình thức của Sa man giáo, ở Việt Nam xiên lình tượng trưng cho những hiện tượng siêu nhiên, thần thông của bề trên, một số người cho rằng xiên lình do đâm vào huyệt đạo nên không chảy máu, nhưng sự thực khi hầu là xiên lung tung trên má, miệng, tai, không cứ vào huyệt đạo mà không chảy một giọt máu, tương tự như vậy, việc lấy dấu mặn, sau khi đạp vỡ, lấy mảnh sành rạch lưỡi phun máu vào bùa, nhưng khi thư hương vào chén rượu ngậm vào máu lập tức ngừng chảy.
CÁC VỊ THÁNH NHÀ TRẦN GỒM:
1.Vương phụ - vương mẫu (Vương phụ Khải thánh An Sinh, tặng phong Hiển Hoàng Khâm Minh - Đại vương. Vương mẫu An Sinh phu nhân Thiện Đạo Quốc mẫu )
2. Đức đại vương chính cung (Cửu thiên vũ đế Trần Triều hiển thánh Thái Sư Thượng Phụ Quốc Công bình bắc đại nguyên suý Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương thượng thượng thượng đẳng thần ): Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng, hổ phù, ông làm phép sát quỷ trừ tinh, bóng đức ông khá nặng không phải đồng cựu đội lệnh nhà Trần thì không hầu được.
3. Vương phi phu nhân (Vương Phi Thiên Thành công chúa Nguyên Từ Quốc Mẫu ).Bà mất ngày 28/9
4. Thày dạy văn
5. Thày dạy võ
6. Quan Nam Tào
7. Quan Bắc Đẩu
8. Đức thánh Cả (Trần triều thượng tướng. Khai quốc công Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn,ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm, ngài ngự đồng lấy dấu máu làm bùa trừ tà sát quỷ chữa bệnh)
9. Đức phó tằng (Trần triều thượng tướng. Tiết độ sứ Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Uất, ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm, ngài chuyên bắt tà ma, cắm đất tìm cốt và trị trùng)
10. Đức thánh tam (Trần triều thượng tướng. Khai quốc công Hưng Hiến đại vương, Đệ tam Ông cửa suốt Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm, ngài ngự đồng sát quỷ trừ tà, chữa bệnh)
11. Đức thánh đệ tứ (Trần triều thượng tướng. Khai quốc công Hưng Trí đại vương Trần Quốc Hiện, ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm )
12. Đức tiên cô đệ nhất Quốc Mẫu (Trần triều Vương nữ đệ nhất Quyên Thanh công chúa Trần Thị Trinh, là vợ Vua Trần Nhân Tông, sau này cô theo vua Trần Nhân Tông tu tại Chùa Yên Tử, khi ngự đồng cô mặc áo màu đỏ, đầu đội khăn đóng, dùng khăn đỏ thắt dải buộc lên)
13. Đức tiên cô đệ nhị Đại Hoàng (Trần triều Vương nữ đệ nhị Đại Hoàng công chúa Điện Súy phu nhân Trần Thị Tĩnh, khi ngự đồng cô mặc áo màu vàng, một số nơi hầu cô mặc áo màu xanh, cô làm phép trừ linh tróc tà )
14. Lục Bộ Đức Thánh Ông ( đây là các danh tướng không mang họ Trần nhưng thuộc về công đồng Trần triều, và luôn được phối tự ở các Đền Trần Triều, các hàng lục bộ đều mặc áo đỏ, về bắt tà, đi trên than lửa, lười cày nung nóng) Gồm :
- Điện Tiền Phò Mã Phạm Tướng Quân (Trần Triều vương tế điện suý thượng tướng quân quan nội hầu Phạm sắc phong Chiêu Cảm Hùng Văn đại vương, ngài ngự đồng khăn áo đỏ, ngài về tiễn đàn nhà Trần )
- Tả Yết Kiêu tướng quân ( Tên thật là Phạm Hữu Thế, là tùy tướng của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn, ông có tài bơi lội như loài thủy tộc, Trần Hưng Đạo trọng dụng và đặt tên là Yết Kiêu, ông được vua Trần phong tước Trần triều Hữu tướng đệ nhất bộ đô soái thủy quân tước hầu, lễ hội của ông ngày 15/1)
- Hữu Dã Tượng tướng quân ( ông rất giỏi huấn luyện voi, là tướng giỏi lục quân
- Nghi Xuyên tướng quân
- Hùng Thắng tướng quân (Vi Hùng Thắng, được sắc phong tước Quận Công
- Huyền Do tướng quân ( Đặng Huyền Quang, tài ba võ nghệ hơn người, được vua Trần thăng tướng quân Thái úy, ông mất ngày 10/10)
15 - Trần triều Vương nữ tôn Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Hậu (Bà là con gái trưởng của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Là vợ vua Trần Anh Tông. Mẹ đích của vua Trần Minh Tông)
16 - Trần Triều Khống Bắc tướng quân An Nghĩa đại vương ( Nguyễn Chế Nghĩa, ngài văn võ song toàn, đứng đầu ban võ, ngài mất ngày 28/8).
17. Đức Thái Bình công chúa ( Cô là con nuôi của Đức Thánh Trần, có công phục vụ nhà Trần ở vùng Thái Bình, khi ngự đồng cô mặc áo màu xanh
18. Đức Trần Bình Trọng
19. Cô bé cửa suốt (Trần triều Vương ngoại nữ tôn Tịnh Huệ công chúa, là con gái của Phạm Ngũ Lão và là thứ phi của vua Trần Anh Tông, Anh Tông hoàng đế thứ phi. Cô cùng Đức ông Đệ Tam trấn thống lĩnh ba quân thủy binh trấn giữ ngoài Cửa suốt nên gọi là cô bé cửa suốt. Khi ngự đồng cô mặc trang phục màu trắng, múa kiếm và cờ lệnh, ngày tiệc của cô là ngày 2/3 âm lịch)
20. Cậu bé cửa đông ( Hiển thánh vương tôn chủ bộ tướng): Trong hệ thống thờ các vị thánh Trần triều cổ không hề có Cậu bé cửa Đông, khoảng những năm 1990 một số đồng thầy hầu giá cậu bé cửa đông theo lối hầu mới, ghép Tứ phủ với Trần triều trong một buổi ( trước đây Tú phủ và Trần Triều hầu tách các buổi khác nhau), 1 số tài liệu nói cậu là Thánh cậu trấn giữ Cửa đông, 1 số tài liệu nói Cậu là Cậu bé Quận bản Đền trong Đền cửa ông được Đức ông Đệ Tam trao quyền trấn giữ Cửa Đông, cậu được thờ ở 1 ngôi đền Mẫu gần đền cửa ông. 1 số sách cho là cậu là cháu trai của Hưng Đạo Đại Vương, bằng Cô bé Cửa Suốt, tuy vậy tài liệu không nói rõ đó là vị cháu nào của Hưng Đạo Đại Vương.Có giả thiết cho rằng cậu là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ( là cháu nội vua Trần Thái Tông). Khi ngự đồng cậu mặc áo vàng hoặc trắng, đầu vấn khăn ngang, múa cờ và kiếm
- Ngoài ra còn các vị tướng khác như Trần Sầm, Đỗ Hựu, Đỗ Vỹ, Đỗ Hưng, Nguyễn An, Trần Bách, Đoàn Thại, Nông Thị Tâm, Lâm Văn Cường, Trần Nhật Duật….
- Cùng chư quan tướng hạ ban Ngũ hổ tướng quân, gồm:
Đông phương lưu diện Đại tướng thanh hổ đại thần
Nam phương lưu chỉ Đại tướng xích hổ đại thần
Tây phương lưu tất Đại tướng bạch hổ đại thần
Bắc phương lưu thị Đại tướng khắc hổ đại thần
Trung phương lưu phòng Đại tướng hoàng hổ đại thần
Ngài ngự đồng hiến hương, hiến tửu, hiến đĩa sành, đập đĩa, gầm rú, khám sét bản đền từ trong ra ngoài, thường được hầu bắt tà và tạ bản đền đóng cửa phong ấn.